Viết về GS Ngô Bảo Châu
Tháng
12/2009, tạp chí Time (Mỹ), một tạp chí có uy tín quốc tế, đã xếp công trình toán học Bổ đề cơ bản của GS Ngô Bảo Châu thứ 7 trong số 10 khám phá khoa học nổi bật
trên thế giới năm 2009. Công trình ấy được công bố năm 2007, sau đó, được
giới toán học thế giới kiểm tra, phản biện, rồi công nhận vào năm 2009.
Tạp chí Time đặt công trình của nhà toán học Việt Nam bên cạnh những khám
phá khoa học lớn như: tìm thấy người Ardi,
tổ tiên cổ nhất của loài người sống cách đây 4,4 triệu năm; lập bản đồ chi
tiết về bộ gen người; phát hiện nước trên Mặt trăng; Máy gia tốc lớn hadron
ở Geneva (Thuỵ Sĩ) tạo năng lượng kỷ luc; thực hiện thành công viễn tải
lượng tử...
Sinh năm
1972 tại Hà Nội dưới mưa bom trải thảm, học tập trong những năm khó khăn
sau chiến tranh, mặc dù vậy, Ngô Bảo Châu liên tiếp đoạt hai huy chương
vàng Olympic Toán Quốc tế. 32 tuổi, anh trở thành giáo sư Đại học Paris-Nam
và, sau đó, được công nhận là giáo sư kiêm chức tại Viện Toán học Hà Nội,
vị giáo sư trẻ nhất Việt Nam.
Anh liên
tiếp được tặng nhiều giải thưởng toán học quốc tế như Giải thưởng Nghiên cứu Clay ở Mỹ (2004), Giải thưởng
Oberwolfach ở Đức (2007), Giải thưởng của Viện Hàn lâm Khoa học
Pháp (2008)...
Viện
Nghiên cứu cấp cao Princeton mời anh sang Mỹ làm việc dài hạn.
Dù tới
tháng 9/2010, Đại hội Toán học Thế giới mới được tổ chức tại Ấn Độ, nhiều
người đang hi vọng, Ngô Bảo Châu sẽ vinh danh Việt Nam bằng Huy chương
Fields danh giá.
Bài viết
sau với những tư liệu chính xác và riêng về Ngô Bảo Châu của tác giả Hàm
Châu, người vốn thân thiết và am hiểu nhà toán học nổi tiếng này.
***
Ngô Bảo
Châu, “bom tấn” và “trống đồng” trong toán học
Khoa học là
"nghề gia truyền"
Ngô Bảo Châu
sinh năm 1972, năm Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh cho máy bay chiến
lược B-52 ném bom trải thảm Hà Nội, khi cha anh tòng quân, chuẩn bị lên
đường vào tuyến lửa Quảng Trị.
|
GS Ngô Bảo Châu cùng bố, GS,TSKH Ngô
Huy Cẩn
|
Anh là con
một, lớn lên trong gia đình trí thức: cha là Giáo sư, Tiến sĩ khoa học cơ
học Ngô Huy Cẩn, làm việc tại Viện Cơ học (thuộc Viện Khoa học và Công nghệ
Việt Nam; mẹ là Phó Giáo sư, Tiến sĩ dược học Trần Lưu Vân Hiền, công tác
tại Bệnh viện Y học cổ truyền trung ương. Có thể nói, "nghề gia
truyền" của gia đình anh là "nghề khoa học".
"Hữu
thư chân phú quý" (có sách mới thật là
giàu sang), của cải dồi dào trong gia đình anh không phải là "tờ xanh,
cây vàng", mà là sách vở, là lòng khát khao hiểu biết được "di
truyền" qua nhiều thế hệ. Tổ tiên anh thuộc dòng họ "thi
thư", có người từng giữ chức Đông các Đại học sĩ chuyên giảng
"sách thánh hiền" cho Thái tử triều Nguyễn.
Ngay từ
những năm trung học cơ sở, Bảo Châu đã được học tại các lớp chuyên toán của
thành phố Hà Nội đặt tại Trường Trưng Vương. Thầy Tôn Thân, thầy giáo toán
cho Châu là người dạy giỏi nổi tiếng ở Thủ đô, cháu ngoại nhà học giả Phạm
Quỳnh (Chủ bút tạp chí Nam Phong hồi đầu thế kỷ 20). Cô giáo dạy văn là cô
Trịnh Bích Ba, con gái yêu của nhà học giả Trịnh Đình Rư, cử nhân Nho học,
đã để ấn tượng sâu đậm trong lòng Châu ngay từ lứa tuổi thiếu niên giàu cảm
xúc.
Lên bậc
trung học phổ thông, Châu thi đỗ vào Khối Phổ thông chuyên toán Trường Đại
học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khối THPT chuyên Toán - Tin Trường Đại học Khoa
học tự nhiên thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội). Suốt mấy thập niên, Đơn vị Anh
hùng Lao động này đã hội tụ được nhiều nhà giáo dạy toán nổi tiếng như Phan
Đức Chính, Nguyễn Văn Mậu, Lê Đình Thịnh, Phạm Văn Điều, Phạm Tấn Dương,
Nguyễn Xuân My, Đỗ Thanh Sơn, Nguyễn Vũ Lương, Phạm Văn Hùng, Phạm Quang
Đức, Phan Cung Đức, Phạm Đăng Long, Nguyễn Thành Văn, cũng như những cô
giáo, thầy giáo dạy giỏi các môn khác như các cô Đặng Thanh Hoa, Nguyễn Thị
Tính, các thầy Lê Đình Vinh, Dương Hoàng Giang, Lê Văn Việt, Nguyễn Cảnh
Hòe...
Lão Tử, nhà
tư tưởng lỗi lạc của phương Đông cổ đại, đã viết: "Thiên lý chi hành thuỷ ư túc
hạ" (Chuyến
đi nghìn dặm là do bước chân đầu tiên). Ngô Bảo Châu đặt những bước chân
đầu tiên vững chắc, đúng hướng, không "xa chính đạo, sẩy chân, lạc
lối".
Do được đào
tạo trong "trường chuyên, lớp chọn" với chất lượng cao, cho nên
mùa hè năm 1988, khi mới 16 tuổi, đang học lớp 11, Châu đã lọt vào đội
tuyển học sinh giỏi toán nước ta đi thi Olympic Toán quốc tế (International
Mathematical Olympiad/ IMO) tại Canberra, thủ đô Australia. Là một trong
mấy thí sinh ít tuổi nhất kỳ thi, thế mà Châu vươn tới đỉnh cao nhất: giành
huy chương vàng với số điểm tuyệt đối 42/42. Châu quả có năng khiếu toán
vượt trội.
Mùa hè năm
sau, 1989, Châu lại lọt vào đội tuyển quốc gia đi dự IMO tại Braunschweig
(Brunswick trong tiếng Anh). Và, một lần nữa, Châu giành huy chương vàng.
Trở về Hà
Nội, Châu vinh dự được bác Đỗ Mười, lúc đó giữ chức Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, mời lên Phủ Chủ tịch hỏi chuyện.
Vươn tới đỉnh
cao giữa Paris hoa lệ
Học xong
trung học, Châu theo một lớp tiếng Hungary, sửa soạn sang Budapest học lên
đại học. Nào ngờ bên Đông Âu xảy ra "cách mạng nhung"! Chính
quyền mới không cấp học bổng cho sinh viên Việt Nam nữa...
Được Giáo sư
Nguyễn Văn Đạo giới thiệu, Giáo sư Paul Germain, Tổng Thư ký Viện Hàn lâm
Khoa học Pháp, liền đề nghị Chính phủ nước này đặc cách cấp học bổng cho
Châu vào Đại học Paris 6.
Đối với một
sinh viên Pháp hay Việt Nam vào loại giỏi, được vào Đại học Paris 6 là mãn
nguyện lắm rồi. Nhưng Châu thì không! Anh luôn vươn tới đỉnh cao. Hai năm
sau, anh thi vào hệ sau đại học của École Normale Supérieure de Paris, đại
học danh tiếng nhất nước Pháp mà ta quen dịch là Đại học Sư phạm Paris, nơi
từng đào tạo nhiều nhà bác học Pháp lừng danh, và cũng là nơi mà một số
người Việt Nam ưu tú thế hệ trước như Hoàng Xuân Hãn, Lê Văn Thiêm, Trần
Đức Thảo, Trần Thanh Vân... đã từng theo học.
Do rất nổi
tiếng trên thế giới, tên trường này thường vẫn giữ nguyên dạng chữ Pháp
trong các văn bản tiếng nước ngoài. Châu đỗ thủ khoa kỳ thi tuyển năm ấy.
Anh bảo vệ
thành công luận án tiến sĩ năm 25 tuổi, rồi luận án habilitation (tương
đương tiến sĩ khoa học) năm 31 tuổi.
Người cha
giáo sư và cô con gái nhỏ
Là một người
"hiến thân" cho toán học, nhưng anh không phải là một cỗ rô-bốt
chỉ biết tính toán suốt ngày đêm, mà trái lại, là một con người - như bạn
bè anh nhận thấy - có tâm hồn tinh tế, trầm tư, giàu mỹ cảm, biết yêu những
vũ khúc polonaise, mazurka mang âm hưởng đồng quê êm dịu của Chopin hay
những khúc rhapsony (cuồng tưởng) đầy bão dông sấm sét của Liszt; biết say
thơ Hàn Mặc Tử siêu thoát hay thơ Quang Dũng hào hoa; biết mải mê đọc ngấu
nghiến mấy cuốn tiểu thuyết mới in như "Phế đô" (The
Abandoned Capital), "Quỷ thành" của nhà văn Trung Quốc đương đại
Giả Bình Ao - cây bút có biệt tài soi tỏ cõi tâm linh "tội lỗi"
của những nhân vật nam và nữ thời nay như Trang Chi Điệp, Đường Uyển Nhi,
Liễu Nguyệt... ở thành Tây An, chốn đế đô thời cực thịnh Hán - Đường, nhưng
về sau bị "phế bỏ"!
Và chiều
chiều người cha trẻ tuổi ấy thường âu yếm dắt tay cô con gái nhỏ thảnh thơi
dạo bước men theo những ngọn đồi thoai thoải dốc, nở đầy hoa thuỷ tiên dại
màu vàng sáng, hoa lệ xuân đỏ tươi hay hoa đậu kim vàng thắm ở vùng
Palaiseau, Gif-sur-Yvette, ngoại thành Paris, vừa đi vừa bày cho con cách
gọi tên các loài hoa ấy bằng hai thứ tiếng Việt, Pháp.
Đầu năm
2004, khi chưa đầy 32 tuổi, anh được hai trường đại học lớn ở Paris (Paris
6 và Paris 11) mời làm giáo sư. Anh nhận lời Đại học Paris 11 vì muốn sống
gần ba người đồng nghiệp có nhiều "duyên nợ": Gérard Laumon,
Laurent Lafforgue và Ngô Đắc Tuấn. G. Laumon là người thầy đã hướng dẫn L.
Lafforgue và Ngô Bảo Châu viết luận án tiến sĩ.
Cả hai nhà
toán học Pháp ấy đều đã sang thăm Việt Nam và đã sống nhiều ngày trong ngôi
nhà của cha mẹ anh lúc bấy giờ ở khu Mai Động, Hà Nội. Còn Ngô Đắc Tuấn,
thì vốn cũng là "dân chuyên toán Tổng hợp" như Châu, và cũng như
Châu, Tuấn hai lần giành huy chương vàng IMO (International
Mathematical Olympiads, năm 1995, rồi 1996)
tại Canada và Ấn Độ, sau đó, theo học Đại học Bách khoa Paris (École
Polytechnique de Paris), đỗ đầu kỳ thi tốt nghiệp. Tuấn được Châu giới
thiệu làm nghiên cứu sinh với L. Lafforgue, bạn thân của Châu và là nhà
toán học được tặng Huy chương Fields (Fields Medal), Viện sĩ Viện Hàn lâm
Khoa học Pháp.
Bước qua chướng ngại 30 năm của nền toán học thế
giới
Ngô Bảo Châu
đã nghiên cứu thành công Bổ đề cơ bản của Langlands, một "bổ
đề" khó chứng minh đến mức mà 30 năm qua, nhiều nhà toán học hàng đầu
- kể cả cá nhân Langlands - đã ra sức lao vào giải quyết nhưng đều thất
bại. Vị GS trẻ này đã nhận được lời mời làm việc dài hạn tại Đại học
Princeton, một đại học hàng đầu ở Mỹ, nơi Albert Einstein từng giảng dạy.
Công trình
toán học gây tiếng vang tức thì
Tháng
4/2004, Ngô Bảo Châu và Gérard Laumon công bố dưới dạng tiền ấn phẩm và đưa
lên mạng Internet công trình toán học dày 100 trang viết bằng tiếng Pháp
nhan đề: Le lemme fondamental pour les
groupes unitaires (Bổ
đề cơ bản cho các nhóm unita/ the fundamental lemma for unitarian groups).
Công trình
đi vào một vấn đề thời sự toán học, giải quyết một bài toán lớn từng được
nhiều nhà toán học hàng đầu trên thế giới lao vào chứng minh trong suốt 20
năm nhưng chưa ai thành công, cho nên ngay lập tức gây tiếng vang rộng
khắp.
Ngô Bảo Châu
được mời sang Nhật Bản trình bày các kết quả mới, rồi sau đó, sang Canada
dự Hội nghị quốc tế về các dạng tự đẳng cấu và công thức vết tại Viện
Fields. Đến hội nghị có nhiều nhà toán học nổi tiếng từ các đại học lớn
trên thế giới. Ngô Bảo Châu được mời đọc báo cáo trong phiên họp toàn thể
đầu tiên.
Sau khi nghe
anh, chính Robert Langlands, nhà toán học đã từng đưa ra Chương
trình Langlands (Langlands
Program) thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà toán học xuất sắc
nhất hành tinh trong mấy chục năm qua, gặp ngay Ngô Bảo Châu, mời anh sang
làm việc dài hạn tại Đại học Princeton, một đại học hàng đầu ở Mỹ, nơi
Albert Einstein từng giảng dạy.
Gạt bỏ chướng
ngại lì lợm cho giới toán học quốc tế
Do đã có
kinh nghiệm trong việc nghiên cứu thành công Bổ
đề cơ bản của
Jacquet, Ngô Bảo Châu mạnh dạn bắt tay nghiên cứu Bổ
đề cơ bản của
Langlands. Sau hai năm, anh thực hiện được một bước đột phá vào mùa hè
2003, khi trở về Hà Nội "phượng đỏ bờ đê, ve kêu hàng sấu" để
thăm cha mẹ tại ngôi nhà xinh xắn mới xây nhìn sang hồ Thủ Lệ biếc xanh.
Những tháng tiếp theo, kết hợp với một số kết quả mà G. Laumon đã đạt được
trước đó, hai tác giả hoàn thành chứng minh Bổ đề cơ bản cho các nhóm unita (the fundamental lemma for
unitarian groups).
Công trình
của Ngô Bảo Châu và Gérard Laumon chứng minh thành công "bổ để"
này, gạt bỏ một vật chướng ngại lì lợm trên dòng chủ lưu của toán học đương
đại, lập tức gây được sự chú ý của giới toán học quốc tế. Hai tác giả giúp
giới toán học vượt qua một vật cản để tiến xa hơn trên con đường A. Wiles
đã từng đi qua khi ông chứng minh Giả thuyết Taniyama - Shimura.
Với kết quả
Ngô Bảo Châu và Gérard Laumon đạt được, giới toán học quốc tế đã bước thêm
một bước tiến tới chứng minh các giả thuyết khác trong Chương
trình Langlands (Langlands
Program), thực hiện giấc mơ ấp ủ của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu nhằm
tìm kiếm sự thống nhất vĩ đại huy hoàng trong toán học.
Không phải
ngẫu nhiên khi chính A. Wiles, "nhà toán học lừng danh nhất thế kỷ
20", tự mình đứng ra tiến cử Ngô Bảo Châu và Gérard Laumon nhận Giải
thưởng Nghiên cứu của Viện Toán học Clay dành cho công trình toán học xuất
sắc nhất thế giới năm 2004. Cũng không phải dễ dàng khi người Mỹ mời anh
sang nước này làm việc với mức lương hơn 200 nghìn USD/ năm.
Giáo sư Gérard Laumon (trái) và giáo sư
Ngô Bảo Châu tại Paris (Pháp) mùa hè 2004
Làm được việc
chính Langlands cũng thất bại
Để hiểu được
ý nghĩa của thành công trên, ta hãy quay về với quá trình chứng minh Định
lý cuối cùng của Fermat, hay còn gọi là Định lý lớn Fermat. Định lý này
được Pierre de Fermat, nhà toán học Pháp kiệt xuất, nêu lên vào thế kỷ 17,
nhưng không để lại chứng minh! Và, vì thế, nó đã trở thành một thách đố làm
bối rối những bộ óc vĩ đại nhất của nhân loại trong hơn ba thế kỷ! Thoạt
nhìn, định lý thật giản đơn: Phương trình xn + yn = zn không có nghiệm nguyên dương khi
n > 2.
Định lý lớn
Fermat khiến ta nhớ tới một định lý đã được Pythagore, nhà toán học Hy Lạp
cổ đại, chứng minh vào thế kỷ 6 trước Công nguyên, thường gọi là Định lý
Pythagore: x2 + y2 = z2 (nếu trong một tam giác vuông ta
coi cạnh huyền là z, các cạnh góc vuông là x và y).
Thế nhưng,
hơn ba thế kỷ trôi qua, không ai chứng minh được Định lý lớn Fermat!
Giữa thế kỷ
20, hai nhà toán học Nhật Bản Yukata Taniyama và Goro Shimura đưa ra phỏng
đoán thiên tài (về sau gọi là Giả thuyết Taniyama - Shimura)
rằng mỗi phương trình eliptic đều có liên hệ với một dạng modular. Nếu giả
thuyết này đúng, thì nó sẽ tạo điều kiện để giải quyết nhiều bài toán
eliptic cho đến nay chưa giải quyết được, bằng cách tiếp cận chúng qua thế
giới modular. Và, như vậy, hai thế giới eliptic và modular vốn tách biệt
nhau, sẽ có thể thống nhất.
Trong những
năm 1960, R. Langlands và những người cộng tác tại Đại học Princeton (Mỹ)
đưa ra một loạt giả thuyết về những mối liên hệ giữa nhiều ngành toán học
vốn rất khác nhau, và kêu gọi giới toán học quốc tế hợp tác chứng minh
những giả thuyết cấu thành Chương trình Langlands.
Nếu những
giả thuyết mang màu sắc tư biện ấy, vào một ngày đẹp trời nào đó, được
chứng minh, thì sẽ mang lại những kết quả vô cùng to lớn cho toán học. Khi
ấy, bất cứ một bài toán chưa giải được trong một lĩnh vực nào đều có thể
biến đổi thành một bài toán tương tự trong một lĩnh vực khác, và các nhà
toán học có thể huy động cả một kho to lớn những kỹ thuật mới để giải nó.
Thế nhưng,
cho đến lúc bấy giờ, thì chưa có một giả thuyết nào trong chương trình đầy
tham vọng của Langlands được chứng minh, kể cả giả thuyết nổi tiếng nhất là Giả thuyết Taniyama - Shimura.
Mùa thu năm
1984, tại một hội nghị toán học tổ chức trong khu Rừng Đen ở CHLB Đức, Gerhard
Frey đi tới một kết luận đầy kịch tính, rằng nếu chứng minh được Giả
thuyết Taniyama - Shimura, thì cũng có nghĩa là chứng minh đượcĐịnh lý lớn Fermat,
bởi vì định lý này chỉ là một hệ quả của giả thuyết trên.
Kết luận đó
kích thích mạnh lòng "cuồng nhiệt" của Andrew Wiles, một nhà toán
học người Anh làm việc tại Mỹ. A. Wiles lặng lẽ tự giam mình bảy năm liền
trên một gian gác xép, cam lòng chịu cảnh "lưu đày cô đơn" để bí
mật tìm kiếm lời giải cho bài toán "xuyên thế kỷ"!
Để rồi trong
ba phiên họp liên tiếp vào mấy ngày 21, 22 và 23/6/1993 tại Viện Isaac
Newton ở Cambridge, Vương quốc Anh, quê hương A. Wiles, ông ta viết chi
chít trên hai tấm bảng lớn, đột ngột thông báo chứng minh Giả thuyết Taniyama - Shimura mà Định
lý lớn Fermat chỉ
là một hệ quả. Lúc ấy, nhiều người thành thật nghĩ rằng đó là "buổi
thông báo toán học quan trọng nhất thế kỷ 20".
Báo Guardian ở Anh cũng như báo Le
Monde ở Pháp rút
tít lớn trên trang nhất. Tờ People coi A. Wiles là một "người
hấp dẫn trong năm" sánh ngang Công nương Diana! Một tập đoàn may sẵn
quốc tế mời Wiles quảng cáo cho các mẫu quần áo đàn ông! Thế nhưng...
Nhà toán học
Nick Katz, một người bạn của Wiles, bỗng phát hiện ra một lỗi nghiêm trọng
nhưng hết sức tinh vi, khó thấy, trong bản thảo dày 200 trang của Wiles.
Thế là, than ôi, dường như bất cứ ai cả gan lao vào chứng minh Định
lý lớn Fermat, đều không tránh khỏi cuối cùng chuốc lấy...
"thất bại định mệnh"! Và bài toán hóc hiểm kia vẫn cứ kiêu hãnh
nằm nguyên tại chỗ như một toà... "lâu đài tăm tối"!
Nhưng là con
người gang thép, Wiles không cam chịu "bó giáo quy hàng" như bao
bậc "tiền bối"! Suốt 14 tháng trời tiếp theo, qua những ngày dài
"đau đớn, tủi nhục và gần như tuyệt vọng", Wiles đã sửa chữa,
hoàn thiện chứng minh, rồi trao bản thảo hoàn chỉnh cho người đầu tiên là
vợ ông - bà Nada - để mừng sinh nhật bà, người đã khích lệ ông trong những
phút giây "đen tối nhất"..
A. Wiles
thành công vang dội khi chứng minh được Định lý cuối cùng của Fermat, chấm dứt 358 năm căng
thẳng trong giới toán học quốc tế. Tuy nhiên, một kết quả mà những người
"ngoại đạo" ít chú ý tới, nhưng lại có ý nghĩa to lớn hơn nhiều,
đó là chứng minh Giả thuyết Taniyama - Shimura.
Giả
thuyết Taniyama - Shimura được chứng minh có
nghĩa hòn đá tảng của Chương trình Langlands quả thật là vững chắc. Chương
trình này mặc nhiên trở thành bản thiết kế cho tương lai của toán học.
Một loạt giả
thuyết toán học của Chương trình này liên kết nhiều đối tượng có vẻ rất
khác nhau trong các lĩnh vực toán học như lý thuyết số, hình học đại số, lý
thuyết các dạng tự đẳng cấu... ngày càng thu hút sự chú ý của các nhà toán
học hàng đầu, và dần dần trở thành dòng chủ lưu của toán học đương đại.
Việc gạt bỏ
những vật cản trên dòng chảy chính ấy đã mang lại vinh quang cho nhiều nhà
toán học: A. Wiles chứng minh thành công Định lý lớn Fermat,
được tặng Giải thưởng Nghiên cứu Clay. V. Drinfeld thiết lập được tương ứng
Langlands cho trường hàm trong trường hợp số chiều bằng 2; L. Lafforgue
giải quyết trong trường hợp tổng quát; cả hai nhà toán học trẻ ấy đều được
tặng Huy chương Fields.
Năm 1987,
Langlands và cộng sự phỏng đoán về một tương tự tương ứng cho trường hàm
trên trường phức, về sau, được gọi là tương ứng Langlands hình học. Để
chứng minh được sự tồn tại của tương ứng đó, phải giải quyết một bài toán
lớn mà lúc đầu Langlands chưa thấy hết mức độ phức tạp của nó, nên mới gọi
là Bổ đề cơ bản.
Thuật ngữ bổ
đề (lemma) thường dùng để chỉ một cái gì đó dễ chứng minh, một kết quả kỹ
thuật giản đơn cần thiết trên con đường chứng minh một định lý đích thực. Thế
nhưng, trong trường hợp này, cụm từ bổ đề cơ bản(fundamental
lemma) lại gắn liền với một giả thuyết quyết định, một bộ phận không thể
tách rời của Chương trình Langlands,
một "bổ đề" khó chứng minh đến mức mà 30 năm qua nhiều nhà toán
học hàng đầu - kể cả cá nhân Langlands - đã ra sức lao vào giải quyết nhưng
đều thất bại!
GS Ngô Bảo
Châu - người 3 lần được thế giới vinh danh
Bức thư của
Chủ tịch Viện Toán học Clay
Những ngày
giữa tháng 10/2004, Ngô Bảo Châu dự Hội nghị quốc tế về các dạng tự đẳng
cấu và công thức vết được tổ chức tại Viện Fields, Canada. Cùng với nhiều
nhà bác học nổi tiếng thế giới, GS Ngô Bảo Châu được mời đọc báo cáo tại
phiên họp toàn thể. Anh trình bày công trình mà anh vừa cùng GS Gérard
Laumon hoàn thành và công bố trên mạng Internet.
Đó là công
trình 100 trang về Bổ đề cơ bản cho các nhóm unita, giải quyết một
trở ngại lớn trên con đường phát triểnlý
thuyết tự đẳng cấu (automorphic
forms theory), dần dần thực hiện Chương trình Langlands.
Trước Hội
nghị Canada, anh nhận được bức thư điện tử của James Carlson, Chủ tịch Viện
Toán học Clay, viết:
"Giáo
sư Ngô thân mến,
Tôi vui
mừng báo để ông biết: Viện Toán học Clay vừa chọn ông và ông Gérard Laumon
là hai người được tặng Giải thưởng Nghiên
cứu Clay sẽ trao vào ngày
5/11/2004 tại Cambridge, bang Massachusetts, trong phiên họp hằng năm của
viện. Mục đích của giải thưởng này là để công nhận công trình nghiên cứu
chung của hai ông về bổ đề cơ bản. Năm ngoái, hai người nhận giải thưởng là
Richard Hamilton và Terry Tao. Năm trước, giải thưởng đã được trao cho
Manindra Agrawal và Oded Schramm.
Hội đồng
Cố vấn của Viện chúng tôi, gồm các ông James Carlson, Simon Donaldson,
Gregory Margulis, Richard Melrose, Yum-Tong Siu, Andrew Wiles, gửi lời chúc
mừng hai ông.
Tôi muốn
hỏi ý kiến ông về những gì mà viện chúng tôi có thể giúp ông và ông Laumon
trong nghiên cứu vào năm tới. Phạm vi giúp đỡ khá rộng, hai ông có thể tuỳ
ý lựa chọn, bao gồm cả phí tổn những chuyến đi ra nước ngoài của hai ông và
những người mà hai ông muốn cộng tác, hoặc để tổ chức hội thảo chuyên đề...
Tôi cũng
muốn mời ông dự cuộc họp của viện chúng tôi tại Cambridge vào thứ sáu 5/11
để nhận giải thưởng. Viện sẽ trả mọi phí tổn đi lại, lưu trú và các khoản
chi tiêu hằng ngày. Nếu ông muốn kéo dài chuyến đi ngoài thời gian dự cuộc
họp, trước hoặc sau, chẳng hạn để nói chuyện với các nhà toán học tại đây
hoặc tại những nơi khác, chúng tôi sẵn lòng thanh toán mọi chi phí.
Tôi cũng
viết thư cho ông Laumon để thông báo với ông ấy về giải thưởng và mời ông
ấy đến dự cuộc họp để cùng nhận giải thưởng với ông. Chúng tôi cũng mời ông
ấy nói chuyện về công trình mà ông ấy và ông đã hoàn thành về bổ đề cơ bản.
Tôi chờ
đợi để sớm được nói chuyện với ông. Chúng ta có thể thoả thuận về thời gian
tôi gọi điện cho ông?
Rất chân
thành,
Jim Carlson
Chủ tịch Viện Toán học
Clay"
Suýt không
đến nhận giải được vì hộ chiếu
Sau khi kết
thúc hội nghị ở Viện Fields, Ngô Bảo Châu trở về vùng Plaiseau, xanh ngắt
những ngọn đồi thông, mênh mông những cánh đồng kiều mạch ở ngoại thành
Paris, nơi anh sống cùng vợ - chị Nguyễn Bảo Thanh, người bạn gái cùng lớp
từ thời còn học cấp II chuyên toán Trưng Vương - và ba cô con gái nhỏ. Hộ
chiếu sắp hết hạn. Anh phải đến ngay Đại sứ quán Việt Nam tại Paris để xin
gia hạn, điều này không khó. Nhưng rồi, sau đó, liệu có còn đủ thời gian để
làm thị thực nhập cảnh vào Mỹ không?
Mấy năm gần
đây, do quá lo sợ khủng bố, việc xét cấp visa cho công dân các nước Á, Phi
vào Mỹ thường kéo dài cả tháng. Anh Châu sang Pháp học từ năm 1990, không
phải do tiền Nhà nước ta cấp, không bị ràng buộc bởi lời cam kết phải trở
về nước phục vụ. Sống và làm việc tại Paris đã gần 15 năm, thế mà, do đạo
lý "uống nước nhớ nguồn", anh vẫn giữ quốc tịch Việt Nam, mang
cuốn hộ chiếu phổ thông bìa xanh, cho dù điều ấy lắm khi gây phiền hà cho
anh, chẳng hạn trong việc xin visa vào Mỹ. Anh định nhờ G. Laumon thay mặt
cho cả hai người sang Cambridge nhận Giải thưởng Nghiên cứu Clay. Bởi vì,
G. Laumon mang hộ chiếu Pháp, sang Mỹ đâu có cần visa!
Đang gần như
hết hy vọng, bỗng anh được biết: Viện Toán học Clay đã nhờ Thượng nghị sĩ
E. Kennedy can thiệp, gọi điện thẳng từ Boston sang Paris cho Đại sứ quán
Mỹ.
Thế là, chỉ
mấy tiếng đồng hồ sau, anh nhận được visa!
Lễ trao Giải
thưởng Nghiên cứu Clay năm 2004 diễn ra giản dị mà trọng thể trong phiên
họp hằng năm của Viện Toán học Clay, tại giảng đường Đại học Harvard (Mỹ)
ngày 5/11/2004. Cho tới hôm ấy, chỉ mới có 12 nhà toán học trên thế giới
được tặng giải thưởng này.
GS Ngô Bảo Châu nhận Giải thưởng Nghiên
cứu Clay năm 2004.
Năm 2005,
Nhà nước ta đã đặc cách công nhận chức danh Giáo sư kiêm chức cho Tiến sĩ
khoa học Ngô Bảo Châu. Anh trở thành vị giáo sư trẻ nhất Việt Nam, 33 tuổi.
Còn Giáo sư
Gérard Laumon, sau khi nhận Giải thưởng Nghiên cứu Clay, đã được bầu làm
Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Nhà toán học Ngô Bảo Châu (phải) nhận
bằng giáo sư tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
Thêm 2 lần
được thế giới vinh danh
Sau khi nhận Giải
thưởng Clay ở Mỹ,
Ngô Bảo Châu còn được tặng Giải thưởng Oberwolfach (Oberwolfach Prize) ở CHLB Đức.
Đây là giải thưởng toán học ba năm mới tặng một lần cho một hoặc hai nhà
toán học dưới 36 tuổi có công trình đặc biệt xuất sắc ở châu Âu.
Giải thưởng
Oberwolfach (Oberwolfach Prize) năm 2007 dành cho một mình Ngô Bảo Châu, do
công trình nổi bật 188 trang về đại số và lý thuyết số (algebra and number
theory). Giải do Quỹ Oberwolfach và Viện Nghiên cứu Toán học Oberwolfach ở
Đức trao tặng.
Công trình
mới của nhà toán học mang quốc tịch Việt Nam làm việc tại Đại học Orsay
(tức Đại học Paris-Sud) nhằm giải quyết trọn vẹn Bổ
đề cơ bản theo phỏng đoán của Langlands và Shelstad (the conjecture of Langlands and
Shelstad).
GS Ngô Bảo Châu nhận Giải thưởng
Oberwolfach năm 2007 (lễ trao giải diễn ra đầu năm 2008) ở Đức
Với những
chứng minh xác đáng, Ngô Bảo Châu được thừa nhận là chuyên gia dẫn đầu ở
nơi gặp gỡ giữa hình học đại số và lý thuyết các dạng tự đẳng cấu. Nếu năm
2004, cùng G. Laumon, Ngô Bảo Châu mới giải quyết Bổ đề cơ bản cho các nhóm
unita; thì giờ đây, anh đưa ra lời giải cho các trường hợp khái quát hơn.
Đọc diễn văn
ca ngợi (laudatory speech) tại buổi lễ trao giải thưởng được tổ chức vào
đầu năm 2008, GS Rapoport coi công trình mới của Ngô Bảo Châu là "một
thành tựu sáng chói" (a
brilliant achievement). Sau đó, GS Ngô Bảo Châu còn nhận được Giải thưởng
của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
Đánh giá về thành công của Ngô Bảo
Châu, GS Ngô Việt Trung - viện trưởng Viện Toán học VN, viện sĩ Viện hàn
lâm Khoa học thế giới thứ ba - nói trong một cuộc trả lời phỏng vấn: “Đầu
năm 2004 Ngô Bảo Châu và GS Gérard Laumon đã làm nên “một quả bom tấn”
khi công bố kết quả đột phá về bổ đề cơ bản trong chương trình langlands,
gây tiếng vang lớn trong giới toán học thế giới.
Với kết quả ấy, anh và GS Laumon được tặng giải thưởng
Clay danh giá. Đầu năm 2007, anh lại gây xôn xao khi giải quyết hoàn toàn
bổ đề cơ bản. Với những thành công như thế, anh được Viện Nghiên cứu cấp
cao Princeton của Mỹ, nơi tập trung rất nhiều nhà khoa học hàng đầu thế
giới, mời sang làm việc dài hạn”.
GS Ngô Việt Trung coi GS Ngô Bảo Châu là “một ngôi sao
sáng trên vòm trời toán học VN” và kết luận: “Chúng ta có cơ sở để hi vọng
anh Ngô Bảo Châu được tặng một trong những giải thưởng cao quý nhất của
toán học là Huy chương Fields”.
Cách đây không lâu, trò chuyện với GS Lê Tuấn Hoa - chủ
tịch Hội Toán học VN, tôi được biết GS Ngô Bảo Châu đã được chính thức
mời đọc báo cáo tại phiên họp toàn thể đại hội toán học thế giới sẽ họp
tại Ấn Độ năm 2010. Theo GS Hoa, giới toán học VN hiện đang nóng lòng chờ
đợi tin GS Ngô Bảo Châu được tặng Huy chương Fields.
Nếu điều dự báo của vị chủ tịch Hội Toán học Việt Nam
xảy ra, đó sẽ là một sự kiện khoa học rất lớn bởi vì ngay cả Trung Quốc,
với 1,3 tỉ dân, cũng chưa có nhà toán học nào giành được vinh dự khoa học
cao quý ấy. Hàn Quốc, Singapore mặc dù khoa học và công nghệ phát triển
hơn ta rất nhiều nhưng vẫn chưa có ai đoạt Huy chương Fields.
(Theo Hàm Châu/ Tuổi Trẻ)
|
|